Hệ thống giám sát áp suất lốp (Phần 3)

Tiếp nối phần 1 và phần 2 của chủ đề Hệ thống giám sát áp suất lốp, bài viết sau đây sẽ nói tiếp về phần 3.

Bạn có thể đọc lại phần 2 tại đây: Hệ thống giám sát áp suất lốp (Phần 2).

8. Bộ kích

8.1. Loại 4 bộ kích cho 1 chiếc xe

bộ kích của hệ thống giám sát áp suất lốp
Hình 12: Bộ kích của hệ thống giám sát áp suất lốp.
Phân chức PinVị trí lốp xe
PinTên tín hiệu Loại FLFRRRRL
1B+ IGN_RUNĐiện IGIGIGIGIG
2LIN_BUSTruyền thông LIN LINLINLINLIN
3GNDMassGNDGNDGNDGND
4Mã 1 (ADD GRD. 1)Hoạt động thấp (Thiếu với chốt 3)GND
5Mã 2 (ADD GRD. 2)Hoạt động thấp (Thiếu với chốt 3)GND
6Mã 3 (ADD GRD. 3)Hoạt động thấp (Thiếu với chốt 3)GND

Bảng 7: Phân chức Pin.

LFI được sử dụng để xác định vị trí của các cảm biến điện tử bánh xe được gắn trên xe.

Trong khi ở chế độ MFB cảm biến điện tử bánh xe theo dõi tín hiệu kích hoạt tần số thấp 125kHz do LFI tạo ra. Khi nhận được tín hiệu kích hoạt cảm biến điện tử bánh xe thông báo điều này bằng cách thiết lập trường trạng thái trong tín hiệu RF tiếp theo là “1”.

Thiết bị kết nối LFI cung cấp 6 pin đầu vào. Pin 4 – 6 được sử dụng để mã hóa vị trí. Để mã hóa vị trí bánh xe trước trái , pin 4 phải được nối mass. Nếu không có pin nào được đặt nối mass thì bánh xe phía sau bên trái được mã hoá. Bằng cách đọc đầu vào pin mã hóa, LFI biết được vị trí của nó. LFI đọc vị trí của nó mỗi chu kỳ bật chìa khóa.

Năng lượng cho tất cả LFI được cung cấp bởi một pin thông thường của ECM của hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS) và LFI GND được cung cấp bởi ECM. Việc mã hóa vị trí có thể được thay đổi từ bật tắt chìa khóa do nó không được lưu trữ vĩnh viễn trong bộ nhớ của LFI. LFI đọc vị trí của nó mỗi khi bật chìa khóa. 

Ba bộ kích là tương tự nhau có thể trao đổi vị trí một cách tự do. Chỉ có vị trí pin mass trong giắc cái của LFI là khác nhau. Trên thực tế, pin ’03 & ’04 hoặc 05 hoặc 06′ trên giắc LFI là khác nhau tùy từng loại phương tiện.

Tất cả các LFI là như nhau và vì vậy có thể lắp lẫn cho nhau. Chỉ có hệ thống dây điện (giắc cái) là khác nhau như được hiển thị trong bảng. Đó là pin 3 và 4 đổi vị trí với nhau trong hệ thống dây điện và 3 & 5, 3 & 6 là tương tự.

LIN- BUS:

Việc kết nối giữa ECM của hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS) và 3 hoặc 2 bộ kích (BH & BK) LF được thực hiện qua LIN bus với một tốc độ 9.6kbaud. Một dòng kiểm soát và một dòng phản hồi được xác định. Với một lệnh kiểm tra thông tin kết nối, việc kích hoạt hoặc chẩn đoán LFI có thể được thực hiện. Một lệnh có chứa vị trí của LFI được mã hoá thông qua các pin mã hóa như mô tả ở trên. Trước khi gửi lệnh kích hoạt, đầu tiên phải kiểm tra việc kết nối.

Khi không nhận được dòng phản hồi từ LFI, một lỗi giao tiếp được ghi lại. Nếu nhận được dòng phản hồi thì LFI có mã hóa phù hợp với vị trí tương ứng. Sau đó, lệnh kích hoạt LFI được gửi đi. Sau đó, bộ kích nội bộ tạo ra các dao động 125kHz, khuếch đại tín hiệu và phát tín hiệu khuếch đại thông qua một ăng-ten.

LFI được kích hoạt tại một thời điểm trong 18 giây đến tối đa là 19,5 giây. Trong thời gian kích hoạt của nó, tín hiệu LF bật định kỳ trong 0.25ms và tắt trong 1.25ms. LFI kiểm tra trong quá trình kích hoạt xem tín hiệu LF có thể được bật và tắt đúng cách và xem có phát hiện tình trạng quá áp hay không. Thông tin đó có thể được thông qua lệnh điều khiển LFI (yêu cầu chẩn đoán).

8.2. Loại 2 bộ kích cho 1 chiếc xe

loại 2 bộ kích cho 1 xe
Hình 13: Loại 2 bộ kích cho 1 xe.

8.3. Một bộ kích cho hai cảm biến

Bộ kích phiá trước (RH):

Sau khi bật công tắc, bộ thu cung cấp điện năng cho bộ kích và nó phát ra tín hiệu LF với năng lượng thấp tới bộ cảm biến. Cảm biến FR có thể phản ứng đầu tiên bởi vì nó nằm gần nhất từ bộ kích phía trước.

Nếu cảm biến FR phản ứng hơn 10 lần đến bộ thu (tín hiệu RF phát ra), thì “tự động nhận diện” và “vị trí tự động” cho cảm biến FR được hoàn thành và ID và vị trí của cảm biến FR sẽ được lưu trữ.

Tiếp theo, bộ thu sẽ làm tăng điện năng phát ra thông qua bộ kích để phát hiện cảm biến FL . Lý do để tăng điện năng là để làm cho tín hiệu LF đạt đến khoảng cách dài hơn. Nếu cảm biến nào phản ứng với năng lượng LF phát ra cao hơn, đó là cảm biến FL. Tại thời điểm này, cảm biến FR phản ứng (đã ghi ID) được bỏ qua.

Bộ kích phía sau (RH):

Giống như bộ kích phía trước, ID và vị trí của cảm biến RR và RL được lưu trữ phù hợp. Một cảm biến phản ứng với điện năng thấp của tín hiệu LF là một cảm biến bên RR, một cảm biến phản ứng với điện năng cao hơn của tín hiệu LF là một cảm biến bên RL 

9. Kiểm soát đèn cảnh báo và vận hành đèn cảnh báo

9.1. Kiểm soát đèn cảnh báo

đèn cảnh báo
Hình 14: Đèn cảnh báo.
vận hành đèn cảnh báo
Hình 15: Vận hành đèn cảnh báo.

1) Đèn ta-lông lốp xe: cảnh báo tài xế về áp suất lốp thấp ở bất kể vị trí lốp xe nào đèn này được áp dụng ngay cả trên dòng thấp. Trong trường hợp của Genesis, thì đèn bật khi áp suất lốp dưới 26psi (bánh xe phía trước) hoặc 27psi (bánh xe phía sau).

Hãy chắc chắn rằng tất cả các đặc điểm kỹ thuật áp suất được dựa trên RCP (Recommended Cold Pressure , áp suất lốp xe được đo ở nhiệt độ phòng). Đèn tắt khi áp suất lốp là 30psi và 31psi ở phía trước và phía sau tương ứng. Đèn bật trong 3 giây và tắt mỗi khi bật chìa khóa trong điều kiện bình thường.

2) Đèn của hệ thống giám sát áp suất lốp (TPMS): đèn này bật khi DTC được lưu trữ nên được gọi là “đèn chẩn đoán”. Thậm chí nếu hệ thống là dòng thấp, đèn này cũng được trang bị. Như đã nói, đèn này sẽ nhấp nháy nếu bộ thu ở chế độ còn mới nguyên. Đèn tắt khi DTC không tồn tại.

3) Đèn vị trí lốp xe: đèn này chỉ được áp dụng trong dòng cao cấp. Đèn thông báo vị trí lốp xe có áp suất thấp hơn ngưỡng với đèn ta-lông lốp xe. Đèn bật trong 3 giây và tắt mỗi khi bật chìa khóa trong điều kiện bình thường của hệ thống .

Như thể hiện trong hình, không có đường truyền CAN nào được áp dụng trong hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS) để cho tất cả các đèn cảnh báo được kết nối từng cái một thông qua những dây điện độc lập giữa cụm và bộ thu.

9.2. Vận hành đèn cảnh báo 

Chỉ báo ta-lông lốp xe, vị trí Chỉ báo cảnh báo hệ thống 
Còn mới nguyên (ID của cảm biến không được ghi)vận hành đèn cảnh báo 1vận hành đèn cảnh báo 2
Ta-lông lốp xe: tắt 

Vị trí: tắt

Nhấp nháy
Kiểm tra ban đầu (3giây). Sau công tắc máy ONvận hành đèn cảnh báo 3Hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS) 
Ta-lông lốp xe: Bật  

Vị trí: tất cả bật

Bật 
Vận hành bình thường vận hành đèn cảnh báo 4Hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS) 
Ta-lông lốp xe: tắt 

Vị trí: tắt

Tắt 
Dưới áp suấtvận hành đèn cảnh báo 5Hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS)
Ta-lông lốp xe: Bật  

Vị trí: tất cả bật

Trạng thái trước
Sự cố hệ thống vận hành đèn cảnh báo 6Hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS)
Trạng thái trướcBật
PHƯƠNG THỨC CHẨN ĐOÁNvận hành đèn cảnh báo 7Hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS)
Trạng thái trước Trạng thái trước

Bảng 8: Vận hành đèn cảnh báo.

Đây là bảng tổng kết cho việc vận hành đèn cảnh báo của Hệ thống giám sát áp suất lốp (TPMS) tùy thuộc vào điều kiện.

Chế độ còn mới nguyên của bộ thu của Hệ thống giám sát áp suất lốp (TPMS): Khi thay bộ thu của hệ thống giám sát áp suất lốp (TPMS), đèn ‘TPMS’ sẽ nhấp nháy theo định kỳ và sẽ tắt khi ID của cảm biến đã ghi thành công. Điều này sẽ được giải thích chi tiết hơn sau này.

Kiểm tra ban đầu: Điều này có nghĩa rằng tất cả các loại bóng đèn sẽ bật trong ba giây, với điều kiện IG bật ON

Hoạt động bình thường và dưới áp suất: Đèn vị trí lốp xe (chỉ dành cho dòng cao cấp) sẽ bật khi ngưỡng áp suất đo được ở lốp xe thấp hơn ngưỡng áp suất tiêu chuẩn và đèn ta- lông lốp cũng bật cho phù hợp.

Sự cố hệ thống: đèn ‘TPMS’ là một đèn cảnh báo hệ thống. Bất cứ khi nào lỗi được thiết lập, đèn này sẽ bật.

Ngưỡng cảnh báo áp suất

ngưỡng cảnh báo áp suất
Hình 16: Ngưỡng cảnh báo áp suất.

Thông tin áp suất của cảm biến điện tử của bánh xe sẽ được báo cáo cho bộ thu trong khi chiếc xe di chuyển. (tốc độ xe> 25km / h = tăng tốc> 5g).

Tuy nhiên ở chế độ dừng đậu xe, các thông tin áp suất sẽ được báo cáo sau mỗi 13 giờ để tiết kiệm pin.

Áp lực mất nhanh: áp suất rơi> 20kPa/ phút

Chức năng mất nhanh chóng áp suất hoạt động trong khi lái xe, tuy nhiên nó ngừng hoạt động khi đậu xe để tránh thiết lập một cảnh báo khi lái xe xì lốp bằng tay.

10. Tự động nhận diện và vị trí tự động

tự động nhận diện và vị trí tự động

nhận diện tự động và vị trí tự động
Hình 17: Nhận diện tự động và vị trí tự động.

10.1. Tự động nhận diện 

Chức năng này cung cấp cho hệ thống việc ghi tự động ID của các cảm biến. Vì vậy, chức năng này được áp dụng không chỉ đối với dòng cao mà còn cả với dòng thấp.

Trong hầu hết trường hợp, chiếc xe được giao cho khách hàng, ID của bộ cảm biến đã được ghi để không cần thiết ghi một lần nữa ID của  những cảm biến hiện đang được cài đặt. Nhưng nếu cảm biến được thay thế bằng cảm biến mới, hệ thống cần phải biết là cảm biến có bị thay đổi hay không.

Vì vậy, khi chiếc xe đang chạy với tốc độ 20kph hoặc nhiều hơn, việc tự động nhận diện được thực hiện. Nếu hệ thống không tìm thấy ID của 4 cảm biến, hệ thống sẽ so sánh với ID đã ghi trước để cho việc cảnh báo áp suất thấp sẽ được thực hiện dựa trên ID cũ. Tuy nhiên, nếu không có ID tồn tại trước đó, hệ thống sẽ lưu trữ DTC tương ứng và bật đèn cảnh báo.

10.2. Vị trí tự động 

Chức năng này cung cấp cho hệ thống việc tự động phát hiện vị trí của các cảm biến. Vì vậy, chức năng này được áp dụng chỉ trong dòng cao. Cũng như ID của cảm biến, chiếc xe được giao cho khách hàng, vị trí cảm biến đã được ghi nhớ để  không cần thiết xác nhận lại vị trí.

Nhưng nếu cảm biến được thay thế bằng cảm biến mới, hệ thống cũng cần phải biết vị trí của cảm biến một lần nữa. Vì vậy, khi chiếc xe đang chạy với tốc độ 20kph hoặc nhiều hơn, vị trí tự động được thực hiện thông qua các bộ kích.

Để xác định vị trí cảm biến, bộ thu phải nhận được câu trả lời 10 lần từ bộ cảm biến đó. Nếu không có phản ứng từ bộ cảm biến, bộ thu cố gắng thử lại thêm 3 lần, và cố gắng để tìm thấy vị trí của những cảm biến khác.

Mặc dù định nghĩa của việc nhận diện tự động và vị trí tự động là khác nhau, những điều này được thực hiện thực sự giống nhau , bởi vì ở dòng cao, ID và vị trí của cảm biến không thể được tách rời. Nói chung, khi xe đang chạy liên tục với tốc độ 20kph hoặc nhiều hơn, nó có thể mất khoảng 7 phút để hoàn thành việc nhận diện và vị trí tự động.

Nên nhớ rằng các chức năng này được thực hiện trong mỗi chu kỳ bật chìa khóa bởi vì hệ thống phải kiểm tra xem vị trí lốp xe đã được thay đổi hay không, cảm biến đã ghi vẫn được cài đặt hoặc bị thay thế để đảm bảo hoạt động bình thường.

Nếu bạn có thiết bị chuẩn đoán GDS và TPMS, bạn có thể ghi ID và vị trí của cảm biến bằng tay, nhanh hơn và chính xác hơn so với chức năng tự động được cung cấp bởi nhà cung cấp hệ thống theo dõi áp suất lốp (TPMS).

Nếu xe đang chạy cùng với tốc độ tương tự trong hơn 7 phút, điều này có thể dẫn đến việc ghi sai ID và vị trí của cảm biến nhưng hãy chắc chắn đạt được 10 sự phản hồi từ bộ cảm biến có cùng một ID  để đối phó với tình huống đó.

Tham khảo ngay: Các khoá học sửa chữa ô tô chất lượng nhất tại VATC

11. Sự kích hoạt – Chức năng vị trí tự động

sơ đồ chức năng vị trí tự động
Hình 18: Sơ đồ chức năng vị trí tự động.

Khi các ID của cảm biến điện tử của bánh xe được lưu trữ trong ECU sau khi nhận diện tự động, ECU khớp với mỗi ID và vị trí của cảm biến điện tử của bánh xe.

Việc phân loại nhận diện các cảm biến điện tử bánh xe trong hệ thống theo thứ tự sau:

  1. Bánh xe trước bên trái.
  2. Bánh xe trước bên phải.
  3. Bánh xe sau bên phải.

Sau khi kích hoạt của những bộ kích, hệ thống theo dõi tín hiệu kích hoạt phản hồi LF của từng bánh xe. Nếu nhận được việc truyền dữ liệu này, vị trí tương ứng được gán cho bánh xe kích hoạt.

Vị trí của bộ cảm biến điện tử của bánh xe mà không có tín hiệu kích hoạt LF, thì vị trí của bánh xe này được xác định bằng chức năng nhận diện tự động. 

Phải mất bao lâu để hoàn thành chức năng “Vị trí tự động”? Thông thường phải mất khoảng 2 phút.

12. Bộ kích thích

bộ kích thích
Hình 19: Bộ kích thích.
MụcChế độ vận chuyển Chế độ thử nghiệm Chế độ dừng đậu Chế độ điều khiển Chế độ đồng bộ hóa đầu tiên
Cách đoP60 giây5 giây15 giây
T20 giây5 giây15 giây
A20 giây60 giây15 giây
RF phát tín hiệu 20 giây13 giờ 60 giây15 giây
Điện áp pin của cảm biến Điện áp pin sẽ được đo trong mỗi quá trình phát tín hiệu của RF.
Dữ liệu LF 5 giây1 giây30 giây30 giây

Bảng 9: Bảng dữ liệu của cảm biến.

P: áp suất, T: Nhiệt độ, A: tăng tốc.

Bộ kích thích kích hoạt cảm biến áp suất để nhận biết ID của cảm biến, các trị số đo được từ cảm biến chẳng hạn như nhiệt độ, áp suất và vv.

Bộ kích thích truyền tải tín hiệu và nhận được mô-đun như sau.

1) Truyền dẫn không dây: 125kHz (LF) đến cảm biến áp suất, 30 ~ 100cm (cho phép khoảng cách TX),

      Thời gian: 5 giây

 2) Nhận không dây: 433MHz (RF) từ cảm biến áp suất, 0 ~ 100cm (cho phép khoảng cách RX)

Bộ kích thích (gọi tắt là gói TPMS) được kết nối với máy tính GDS thông qua cáp RS232C và bạn có thể sử dụng cáp USB (thiết bị tiếp hợp) nếu bạn không có cổng COM1 hoặc COM2 trong máy tính của bạn

Đón đọc phần 4 tại đây: Hệ thống giám sát áp suất lốp (Phần 4)

Nếu bạn có đang đam mê hoặc muốn tìm hiểu về các khóa học trong ngành ô tô thì liên hệ ngay với trung tâm VATC theo thông tin dưới đây để được tư vấn chi tiết nhất nhé!

Trung Tâm Huấn Luyện Kỹ Thuật Ô Tô Việt Nam – VATC

  • Địa chỉ: Số 4-6, Đường số 4, Phường Hiệp Bình Phước, Thành Phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Điện thoại: 0945711717
  • Email: info@oto.edu.vn

Hoặc để lại thông tin qua form dưới đây, bộ phận tuyển sinh tại VATC sẽ liên hệ để tư vấn miễn phí cho bạn!




    Đội ngũ chuyên gia VATC

    Chúng tôi là những chuyên gia Nội dung & Truyền thông tại trung tâm VATC - mang đến cho bạn những Tin tức - Sự kiện mới nhất của trung tâm cũng như cập nhật các Kiến thức - Tài liệu chuyên ngành Ô tô hay nhất.